Hiệp định được thiết lập với mục tiêu thiết lập các quy tắc toàn diện và hiệu quả nhằm ngăn chặn các hình thức trợ cấp thủy sản gây ra tình trạng dư thừa năng lực đánh bắt và khai thác quá mức, đồng thời loại bỏ các khoản trợ cấp góp phần vào hoạt động khai thác bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định, có cân nhắc đến những hành vi đối xử đặc biệt đối với các Thành viên đang phát triển và kém phát triển nhất (LDC). Hiệp định Trợ cấp Nghề cá áp dụng đối với các khoản trợ cấp tại Điều 1.1 của Thỏa về Trợ cấp và biện pháp đối kháng (Thỏa thuận SCM) đối với hoạt động khai thác hải sản tự nhiên và các hoạt động liên quan đến khai thác hải sản trên biển.
Hiệp định này đã xác định hoạt động nuôi trồng thủy sản và khai thác thủy sản nội đồng không thuộc phạm vi điều chỉnh của nó. Tương tự, các khoản thanh toán giữa các chính phủ theo các thỏa thuận tiếp cận thủy sản cũng sẽ không được coi là trợ cấp theo ngữ nghĩa của văn kiện này. Hơn nữa, Hiệp định quy định rõ ràng rằng một khoản trợ cấp sẽ được quy cho Thành viên thực hiện trợ cấp đó, bất kể tàu có liên quan treo cờ hay đăng ký của nước nào hay quốc tịch của người nhận khoản trợ cấp.
Đối với các hành vi trợ cấp cho Khai thác IUU được quy định tại Điều 3 của Hiệp định nêu rõ không Thành viên nào được cấp hoặc duy trì bất kỳ khoản trợ cấp nào cho tàu thuyền hoặc người thực hiện tham gia vào hoạt động khai thác IUU hoặc các hoạt động dính líu đến khai thác IUU. Điều này đặt ra yêu cầu về cơ chế xác định hành vi IUU một cách rõ ràng và minh bạch. Một tàu hoặc chủ thể điều hành sẽ bị coi là tham gia khai thác IUU nếu bị một trong các chủ thể như Thành viên ven biển (đối với các hoạt động trong khu vực thuộc thẩm quyền), Quốc gia thành viên treo cờ (đối với hoạt động của tàu treo cờ Quốc gia đó) hoặc một Tổ chức/Thỏa thuận quản lý nghề cá khu vực có liên quan (RFMO/A - phù hợp với các quy tắc và thủ tục của RFMO/A và luật pháp quốc tế có liên quan) có phán quyết về hành vi tham gia khai thác IUU.
Quy tắc cấm trợ cấp sẽ được áp dụng khi quyết định của Thành viên ven biển dựa trên thông tin thực tế có liên quan và Thành viên ven biển đã tuân thủ nghiêm ngặt các yêu cầu về quy trình. Cụ thể, Thành viên ven biển phải cung cấp cho Quốc gia Thành viên treo cờ và, nếu biết, Thành viên trợ cấp, những thông tin quan trọng, kịp thời về tàu hoặc người khai thác đã bị tạm giữ để điều tra thêm về hành vi tham gia IUU hoặc việc Thành viên ven biển đã bắt đầu điều tra, bao gồm cả việc tham chiếu đến mọi thông tin thực tế liên quan, luật hiện hành, các quy định, thủ tục hành chính hoặc các biện pháp khác có liên quan. Đảm bảo cơ hội trao đổi thông tin liên quan trước khi đưa ra quyết định. Điều này cho phép những thông tin đó được xem xét trong quyết định cuối cùng. Thành viên ven biển phải tông báo về phán quyết/ quyết định cuối cùng và bất kỳ biện pháp trừng phạt nào được áp dụng, bao gồm cả thời hạn của các biện pháp trừng phạt, nếu có. Sau khi có quyết định khẳng định, Thành viên ven biển phải thông báo quyết định này cho Ủy ban về trợ cấp nghề cá.
Về thời hạn cấm trợ cấp, Thành viên trợ cấp phải tính đến tính chất, mức độ nghiêm trọng và việc lặp lại hoạt động khai thác IUU của tàu hoặc người khai thác. Lệnh cấm phải được áp dụng ít nhất cho đến khi hình phạt theo quyết định IUU còn hiệu lực được ràng buộc với lệnh cấm trợ cấp, hoặc ít nhất khi tàu hoặc người điều hành được liệt kê trong RFMO/A, tùy theo thời gian nào dài hơn. Các Thành viên phải chủ động có luật, quy định và/hoặc thủ tục hành chính sẵn sàng để đảm bảo rằng các khoản trợ cấp tham gia hoạt động khai thác IUU hoặc các hoạt động liên quan, kể cả các khoản trợ cấp hiện có khi Hiệp định này có hiệu lực, sẽ không được cấp hoặc duy trì.
Đối với các hành vi trợ cấp liên quan đến đàn cá bị khai thác quá mức được quy định tại Điều 4, Hiệp định quy định không Thành viên nào được cấp hoặc duy trì trợ cấp cho việc khai thác hoặc các hoạt động liên quan đến khai thác cá đối với đàn cá đã bị khai thác quá mức. Việc xác định một đàn cá bị khai thác quá mức phải dựa trên cơ sở bằng chứng khoa học tốt nhất sẵn có và được công nhận bởi Thành viên ven biển phù hợp với quyền tài phán của nơi hoạt động khai thác diễn ra, hoặc được công nhận bởi RFMO/A có liên quan trong các khu vực và đối với các loài thuộc thẩm quyền.
Tuy nhiên, nếu các khoản trợ cấp đó hoặc các biện pháp khác được thực thi nhằm tái tạo nguồn lợi về mức bền vững sinh học thì quốc gia Thành viên vẫn có thể cấp hoặc duy trì các khoản trợ cấp cần thiết. Mức cân bằng sinh học bền vững này là mức do Thành viên ven biển hoặc RFMO/A thích hợp xác định, thông qua việc sử dụng các điểm tham chiếu như ngưỡng khai thác bền vững tối đa (MSY) hoặc các điểm tham chiếu khác, tương ứng với dữ liệu sẵn có của nghề cá đó.
Đối với các trợ cấp khác, Hiệp định cũng đặt ra các yêu cầu thận trọng cân nhắc nhằm ngăn ngừa nguy cơ khai thác quá mức trong các vùng nước không được quản lý chặt chẽ hoặc đối với các loài chưa rõ trữ lượng. Thứ nhất, không Thành viên nào được cấp hoặc duy trì các khoản trợ cấp dành cho khai thác hoặc các hoạt động liên quan đến khai thác hải sản vùng tài phán của Thành viên ven biển hoặc một nước không phải Thành viên ven biển và ngoài thẩm quyền của RFMO/A liên quan. Thứ hai, Thành viên phải “đặc biệt thận trọng và hạn chế thích đáng” việc trợ cấp cho các tàu không treo cờ của Thành viên đó. Thứ ba, Thành viên phải đặc biệt quan tâm và “hạn chế thích đáng” việc trợ cấp cho khai thác hoặc các hoạt động liên quan đến khai thác các đàn cá chưa biết trữ lượng. Đây là một biện pháp phòng ngừa quan trọng nhằm tránh lặp lại các sai lầm quản lý trong quá khứ đối với các nguồn lợi chưa được đánh giá khoa học đầy đủ.
Đối với các Thành viên Đang phát triển và Kém phát triển nhất (LDCs), Hiệp định luôn xem xét đến nhu cầu và khả năng của các Thành viên này, đồng thời quy định giai đoạn miễn trừ riêng cho nhóm đối tượng này. Cụ thể, trong thời hạn 2 năm kể từ ngày Hiệp định này có hiệu lực, các khoản trợ cấp được cấp hoặc duy trì bởi các Thành viên đang phát triển, bao gồm cả LDCs, cho đến và trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) sẽ được miễn trừ khỏi các hành động quy định tại điều khoản cấm trợ cấp IUU (Điều 3.1) và điều khoản cấm trợ cấp khai thác quá mức (Điều 4.1). Sự miễn trừ này giúp các quốc gia đang phát triển có thời gian điều chỉnh và xây dựng năng lực thực thi. Ngoài ra, Điều 6 quy định Thành viên phải hạn chế thích đáng việc nêu ra các vấn đề liên quan đến Thành viên LDC và các giải pháp được đưa ra phải tính đến tình hình cụ thể của Thành viên LDC có liên quan. Để hỗ trợ việc thực hiện Hiệp định, Điều 7 cam kết cung cấp “hỗ trợ kỹ thuật và tăng cường năng lực có mục tiêu” cho các Thành viên đang phát triển và LDCs. Để tạo điều kiện cho việc hỗ trợ này, một cơ chế tài trợ tự nguyện của WTO sẽ được thành lập với sự hợp tác của các tổ chức quốc tế liên quan như Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp của Liên hợp quốc (FAO) và Quỹ Phát triển Nông nghiệp Quốc tế. Các đóng góp vào cơ chế này hoàn toàn dựa trên cơ sở tự nguyện.
Để củng cố và tăng cường việc thông báo về trợ cấp nghề cá và giúp giám sát hiệu quả hơn việc thực hiện các cam kết, Hiệp định đã thiết lập nghĩa vụ thông báo và minh bạch hóa mở rộng, bổ sung cho Điều 25 của Thỏa về Trợ cấp và biện pháp đối kháng (Thỏa thuận SCM). Theo đó, các Thành viên phải cung cấp thông tin chi tiết về loại hình hoặc nghề khai thác được nhận trợ cấp; Hiện trạng đàn cá được trợ cấp (ví dụ: khai thác quá mức, khai thác ở mức tối đa bền vững), các điểm tham chiếu được sử dụng, và liệu đàn cá đó có được chia sẻ với bất kỳ Thành viên nào khác hay được quản lý bởi RFMO/A hay không; Các biện pháp bảo tồn và quản lý đang được áp dụng đối với trữ lượng cá liên quan; Năng lực của đội tàu thuộc phạm vi nghề cá được trợ cấp; Tên và số nhận dạng của tàu cá hoặc các tàu được hưởng trợ cấp; Dữ liệu khai thác theo loài hoặc nhóm loài của nghề cá được trợ cấp (hoặc dữ liệu thích hợp đối với nghề cá đa loài). Đối với Thành viên LDC và các Thành viên đang phát triển có sản lượng khai thác hải sản toàn cầu không vượt quá 0,8%, việc thông báo những thông tin bổ sung này có thể được thực hiện 4 năm một lần. Bên cạnh thông báo trợ cấp, mỗi Thành viên phải thông báo hàng năm cho Ủy ban bằng văn bản về danh sách các tàu và người thực hiện mà Thành viên đó xác định chắc chắn đã tham gia vào hoạt động khai thác IUU.
Ủy ban về Trợ cấp Nghề cá bao gồm đại diện của mỗi Thành viên. Mỗi năm, Ủy ban sẽ họp ít nhất 2 lần, thực hiện trách nhiệm theo Hiệp định và tạo cơ hội cho các Thành viên tham vấn. Các thông tin được cung cấp theo Điều 3 và Điều 8 sẽ được Ủy ban kiểm tối thiểu 2 năm một lần. Ủy ban sẽ rà soát hàng năm việc thực thi và vận hành Hiệp định này, có tính đến các mục tiêu của Hiệp định. Không muộn hơn 5 năm kể từ ngày Hiệp định này có hiệu lực và cứ 3 năm sau đó, Ủy ban sẽ rà soát việc thực hiện Hiệp định để xác định những sửa đổi cần thiết nhằm cải thiện việc thực hiện. Khi thích hợp, Ủy ban có thể trình lên Hội đồng Thương mại Hàng hóa các đề xuất sửa đổi văn bản của Hiệp định này. Ủy ban cũng sẽ duy trì liên hệ chặt chẽ với FAO và với các tổ chức quốc tế có liên quan khác trong lĩnh vực quản lý nghề cá, bao gồm cả RFMO/A có liên quan.
Về cơ chế giải quyết tranh chấp (Điều 10), áp dụng các quy định tại Điều XXII và Điều XXIII của GATT 1994 theo Thỏa thuận giải quyết tranh chấp (DSU) cho các cuộc tham vấn và giải quyết tranh chấp theo Hiệp định này. Tuy nhiên, các quy định tại Điều 4 của Hiệp định SCM (thường áp dụng cho các khoản trợ cấp bị cấm) sẽ được áp dụng cho việc tham vấn và giải quyết tranh chấp liên quan đến các vấn đề cấm trợ cấp nghiêm trọng (Điều 3, Điều 4 và Điều 5).
Hiệp định cũng đưa ra ngoại lệ cho các trường hợp cứu trợ thiên tai (Điều 11). Một Thành viên có thể cấp trợ cấp để cứu trợ thiên tai nếu khoản trợ cấp đó giới hạn trong việc cứu trợ một thảm họa cụ thể, giới hạn trong phạm vi vùng địa lý chịu ảnh hưởng, giới hạn thời gian, và trong trường hợp trợ cấp tái thiết, giới hạn trong việc khôi phục nghề cá bị ảnh hưởng và/hoặc đội tàu bị ảnh hưởng về mức trước thảm họa.
Đặc biệt, Hiệp định nhấn mạnh bất kỳ kết luận, khuyến nghị và phán quyết liên quan nào đến Hiệp định này sẽ không có bất kỳ hệ quả pháp lý nào liên quan đến yêu sách lãnh thổ hoặc phân định ranh giới biển. Ban hội thẩm giải quyết tranh chấp cũng sẽ không đưa ra kết luận đòi hỏi cơ quan này phải dựa trên bất kỳ yêu sách lãnh thổ hoặc phân định ranh giới biển nào. Ngoài ra, không có nội dung nào trong Hiệp định này được hiểu hoặc áp dụng theo cách làm phương hại đến quyền tài phán, quyền và nghĩa vụ của các Thành viên, phát sinh theo luật pháp quốc tế, bao gồm cả luật biển.
Hiệp định trợ cấp nghề cá của WTO là một văn kiện đột phá, thể hiện sự hòa hợp giữa các nguyên tắc thương mại đa phương và mục tiêu phát triển bền vững. Bằng cách cấm bất cứ hình thức trợ cấp nào cho các hoạt động IUU và khai thác quá mức, đồng thời thiết lập cơ chế giám sát và minh bạch hóa nghiêm ngặt, Hiệp định này đặt nền móng cho việc quản lý nguồn lợi biển có trách nhiệm hơn, đảm bảo rằng thương mại quốc tế không trở thành yếu tố thúc đẩy sự cạn kiệt của đại dương, đồng thời vẫn bảo vệ được lợi ích và sự phát triển của các quốc gia đang phát triển và kém phát triển nhất.
Hương Trà